Tam bảo là gì?
“Tam Bảo” là danh từ chữ Hán Việt, được dịch nghĩa như sau: “Tam” là ba; “Bảo” là quý báu. Hiểu một cách đơn giản, Tam Bảo là ba ngôi quý báu và được kể ra bao gồm Phật, Pháp và Tăng.
Phật bảo - “ngôi báu thứ nhất”
Tam bảo với Phật là “ngôi báu thứ nhất”, hay Phật bảo, là đấng giác ngộ đầu tiên, người đã tìm ra chân lý và phương pháp tu tập để hướng đến sự giải thoát, làm giảm nhẹ và xóa bỏ những khổ đau vốn có trong cuộc đời này. Rất nhiều người đã tin theo giáo pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy.
Đức Thích Ca Mâu Ni được tôn xưng là Phật, bởi danh từ này vốn là do người Trung Hoa phiên âm từ tiếng Phạn là Buddha, có nghĩa là “bậc giác ngộ”. Khi Phật giáo lần đầu tiên du nhập Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ vào khoảng đầu Công nguyên, người Việt đã phiên âm danh xưng này là Bụt. Vì thế, theo cách gọi của người Việt thì Bụt cũng chính là Phật, cho dù ảnh hưởng lâu đời và rộng khắp của kinh điển chữ Hán đã làm cho danh xưng Phật ngày nay trở thành phổ biến hơn.
Pháp (Những lời dạy của Phật) - “ngôi báu thứ hai”
Chân lý giác ngộ và phương pháp tu tập do Đức Phật truyền dạy được gọi là Pháp. Pháp.Giáo Pháp của Người có thể giúp cho chúng sinh vượt qua được mọi sự khổ não. Nếu chúng sinh nghèo khổ, bần hàn thì Người dạy cho chúng sinh cách làm giàu trong nhân quả của đạo Phật. Nếu chúng sinh khổ vì bệnh tật đau ốm thì Người dạy về nhân quả của bệnh tật. Giáo Pháp của Phật như con thuyền đưa chúng sinh qua khỏi biển sinh tử. Chúng ta có thể thực hành theo đúng và đạt đến sự giác ngộ, đạt đến sự giải thoát giống như Đức Phật. Ngoài giáo pháp của Đức Phật, không còn có phương pháp nào khác có thể giúp chúng ta đạt đến sự giải thoát rốt ráo, vì thế mà Pháp được tôn xưng là “ngôi báu thứ hai”, hay Pháp bảo.
Tăng bảo - “Ngôi báu thứ ba”
Những người rời bỏ cuộc sống nhiều vướng bận để dành trọn cuộc đời thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, hướng đến sự giải thoát, sự giác ngộ, được gọi là chư Tăng. Các vị này cùng nhau tu tập trong một tập thể gọi là Tăng già (do tiếng Phạn là Sangha) hay Tăng đoàn. Trong sự tu tập của tự thân mình, chư Tăng cũng nêu gương sáng về việc làm đúng theo lời Phật dạy và truyền dạy những điều đó cho nhiều người khác nữa. Vì vậy, các Ngài được tôn xưng là “ngôi báu thứ ba”, hay là Tăng bảo.
Tăng đoàn là toàn thể những người xuất gia theo Phật tu hành, là những người lấy lý tưởng của Phật làm lý tưởng của mình. Những con người với chí nguyện rộng lớn “Trên cầu thành Phật, dưới nguyện độ chúng sinh”, giữ gìn giới Pháp của Phật, tu tập theo lời Phật dạy và hoằng truyền giáo Pháp đến chúng sinh thì gọi là Tăng và gọi là Tăng đoàn. Tăng cao quý bởi đó là những người bỏ được những điều thế gian khó bỏ, nhẫn được những điều thế gian khó nhẫn.
Ban Tam Bảo
Ban Tam Bảo là nơi đặt nhiều loại tượng Phật có ý nghĩa và mang những triết lý đạo Phật khác nhau. Đây là gian thờ quan trọng trong các chùa ở Việt Nam, hầu hết Phật tử khi đến chùa đến sẽ đến thắp hương thờ cúng tại ban này. Việc sắp xếp các tượng thờ Tam Bảo phải theo quy tắc riêng, đặt trên các bệ xây từ cao xuống thấp. Đó là triết lý vô thường của Phật giáo được đặt ở hàng đầu, thể hiện qua tam thân Phật - Pháp thân, Báo thân và Ứng Thân.
Quy y Tam bảo
Một cụm từ tiếng Hán. “Quy” có nghĩa là quay về; “Y’’ có nghĩa là nương tựa, cậy nhờ. “Quy y Tam Bảo’’ hiểu đơn giản là quay về, hướng về nương tựa ba ngôi quý báu là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Ba ngôi báu này tạo nên sự nương tựa nơi Tam bảo (Quy y Tam bảo) cho những ai theo đạo Phật.
Khi một người chọn quy y tam bảo nghĩa là họ chính thức bước những bước đi đầu tiên trên con đường học Phật. Họ tin vào đạo và trở thành những phật tử chân chính. Quy Y tam bảo cũng là con đường định hướng đức tin của một người. Khi lựa chọn bước trên hành trình đến với đạo thì nghĩa là cần nỗ lực hơn trong cuộc đời để học hỏi thực hành và thể hiện đức tính của đức Phật, Pháp và Tăng.
Quy Y Phật nghĩa là chúng ta một lòng hướng Phật, phát nguyện học theo và thực hành những điều sẽ đưa chúng ta đến với giác ngộ. Pháp chứa đựng những lời răn dạy của đức Phật. Giáo lý của Đức Phật cũng không ngừng phát triển, hợp thời hợp cơ.
Tăng trong tiếng Phạn có nghĩa là “cộng đồng trong sự hòa hợp”. Chiếu theo nghĩa này, tăng ni là bao gồm một cộng đồng những người tu sĩ sống cùng nhau trong sự hòa hợp, cuộc sống của họ học hỏi và giảng dạy Pháp của đức Phật đến với Phật tử. Quyền và trách nhiệm của các chư Tăng là truyền Pháp để giúp chúng sinh học hiểu và tạo động lực cho hết thảy chúng sinh tìm đến với đạo. Chính vì thế tăng đoàn đóng vai trò quan trọng làm cầu nối cho chúng sinh đến với giác ngộ.
Ý nghĩa của quy y Tam Bảo nằm ở chỗ hướng tâm mọi chúng sinh tìm đến với trí tuệ với giải thoát. Mà Phật Pháp Tăng là ba ngôi báu mà chúng sinh cần phải nhất mực tuân theo và kính ngưỡng.